Phong kiều dạ bạc

Về Bài “Phong Kiều Dạ Bạc”, các bạn cũng đã biết Trương Kế là một thi sĩ đời Đường, cùng thời với Lý Bạch, Đỗ Phủ, Đỗ Mục, Thôi Hạo, Thôi Hộ, Bạch Cư Dị, Mạnh Hạo Nhiên, v.v…
Nhưng ông không được nổi tiếng như các ông trên vì thơ ông không mấy gì xuất sắc. Riêng chỉ có bài “Phong Kiều Dạ Bạc” nhờ âm điệu hay mà được người đời nhắc nhở đến.
Tuy nhiên, thi hào Đỗ Phủ lại cho bài thơ “Phong Kiều Dạ Bạc” được tả không thực tế vì nửa đêm làm gì có tiếng chuông chùa vang lên?
Việc chuông chùa có vang lên vào nửa đêm hay không chỉ có Trương Kế và các bạn thân của ông biết là do ông kể lại, và cũng nhờ tiếng chuông chùa Hàn Sơn vang lên mà Trương Kế mới hoàn tất được bài thơ tứ tuyệt này. Có một giai thoại kể việc Trương Kế sáng tác bài “Phong Kiều Dạ Bạc” trong trường hợp đặc biệt như sau:

Trong một cuộc dong thuyền chơi trên sông (sông này từ thành Cô Tô tức Tô Châu, thuộc tỉnh Giang Tô, chảy ra Trường Giang), khi đến Bến Phong Kiều thì trời sụp tối, Trương Kế dừng thuyền đỗ bến. Cảnh vật lúc đó thật buồn bã, trăng non sắp lặn, sương phủ khắp trời, quạ kêu áo não, hàng cây phong đìu hiu bên bãi vắng, từng đốm lửa của bọn thuyền chài leo lét trên sông, người lữ khách một mình một bóng trong khoang thuyền, chạnh nghĩ tới nỗi cô đơn của mình nơi chốn lạ, nên cảm hứng làm thơ :

Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên,
Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên.

Rồi bỗng nhiên ông . cụt hứng, nằm bóp trán suy nghĩ mãi không “rặn” ra thêm được câu nào.
Trong khi đó, tại chùa Hàn Sơn (chùa này nằm trên bờ sông, cách Tô Châu 10 dặm, độ 6-7 cây số) có một sư cụ trụ trì. Sau khi tụng xong hồi kinh tối, nhà sư đủng đỉnh bước ra sân chùa hóng mát.
Lúc bấy giờ mảnh trăng non (vào mồng ba, mồng bốn đầu tháng) đang lơ lửng trên bầu trời trong suốt, lung linh mờ ảo, trông nửa giống lưỡi câu bạc, nửa tựa như vành cung, cảnh trí đẹp vô cùng, khiến vị sư già cảm hứng làm thơ :

Sơ tam, sơ tứ, nguyệt mông lung,
Bán tự ngân câu, bán tự cung…

Rồi bỗng dưng nhà sư cũng cụt hứng, khựng lại cả giờ không tìm thêm được câu nào nữa.
Lúc đó, chú tiểu của nhà chùa vừa làm xong công việc cuối cùng trong ngày, chú trở vào hậu liêu không thấy nhà sư đâu, chú liền trở ra sân trước, thấy sư cụ cứ đi tới đi lui, cúi đầu ra chiều băn khoăn suy nghĩ, chú đánh bạo đến gần, hỏi:
– Bạch sư cụ! Đã gần khuya rồi, xin sư cụ vào trong yên nghỉ, kẻo ở đây sương xuống nhiều dễ nhiễm bệnh! Mà hình như con xem sư cụ có điều gì khó nghĩ, nếu có thể xin cho được biết.
Chú tiểu này mồ côi cả cha lẫn mẹ, được nhà sư mang về nuôi từ bé và lớn lên được dạy kinh kệ, giáo lý nhà Phật và cả văn chương thi phú nữa. Giờ đây, tài học của chú cũng có thể “bảy bước thành thơ” thỉnh thoảng vẫn được sư cụ gọi lên trai phòng cùng xướng họa thi văn, thầy trò tỏ ra tương đắc lắm.
Nghe chú tiểu hỏi, nhà sư giật mình ngừng bước rồi nhìn chú tiểu trả lời:
Sau buổi công phu tối, ta ra sân nhìn lên trời thấy trăng non đẹp quá, nên tức cảnh làm thơ, nhưng chỉ mới làm được hai câu rồi không tài nào làm thêm được nữa. Nói xong nhà sư đọc hai câu thơ đã làm cho chú tiểu nghe. Nghe xong, chú tiểu vội nói với nhà sư:
– Bạch sư cụ! Vừa rồi con ra giếng múc nước, nhìn xuống đáy giếng thấy hình một mảnh trăng sáng lung linh do phản chiếu của ánh trăng non trên trời, trông đẹp quá, con tức cảnh làm được hai câu thơ, con nghĩ nếu đem hai câu đó tiếp vào hai câu của sư cụ, có lẽ mình sẽ được một bài “thất ngôn tứ tuyệt ” đấy ạ!
Nói xong chú vội đọc lên:

Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn,
Bán trầm thuỷ để, bán phù không.

Vị sư già nghe xong liền cười ha hả và la to lên :
Tuyệt cú! Tuyệt cú! Chúng ta ngẫu nhiên cùng sáng tác chung được một bài thơ bất hủ!
Rồi ông ngâm vang lên:

Sơ tam, sơ tứ nguyệt mông lung,
Bán tự ngân câu, bán tự cung.
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thuỷ để, bán phù không.

Tạm dịch :
Thượng tuần trăng toả ánh mông lung,
Nửa tựa móc câu, nửa tựa cung.
Bình ngọc vỡ thành đôi mánh vụn,
Mảnh chìm đáy nước, mảnh trên không.

“Mồng ba, mồng bốn, trăng mờ
Nửa dường móc bạc nửa như cung trời
Một bình ngọc trắng chia hai
Nửa chìm đáy nước nửa cài từng không”
Sau đó nhà sư bảo chú tiểu vào chùa gióng lên một hồi chuông để mừng thầy trò vừa cùng chung sáng tác một bài thơ bất hủ.
Tiếng chuông từ chùa Hàn Sơn vọng đến Bến Phong Kiều vào đúng giữa đêm, đã làm nhà thơ Trương Kế chợt tỉnh, ông ứng khẩu liền hai câu:
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Và hai câu này được tác giả tiếp vào hai câu ông làm trước để trở thành một bài thơ tứ tuyệt:

Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên,
Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

Thi hào Đỗ Phủ nếu biết trước được giai thoại này thì có lẽ đã không phê bình Trương Kế là tả cảnh không thực tế khi sáng tác bài “Phong Kiều Dạ Bạc”.
Và cũng nhờ tiếng chuông chùa đổ vào nửa đêm này mà người đời (trong đó có chúng ta) được thưởng thức một bài thất ngôn tứ tuyệt nổi tiếng của nhà thơ Trương Kế.

(Credit to Hoàng Quân)

Leave a comment